Sự nghiệp âm nhạc (1970-1978) Cat Stevens

Đỉnh cao của sự nổi tiếng

Trở lại khỏe mạnh và thể thao với bộ râu mới, Stevens đã có trong tay một danh sách các bài hát mới phản ánh quan điểm của mình về những gì ông muốn mang đến cho thế giới với âm nhạc của mình. Những bản thu trước đây của ông đã được bán tại Anh, nhưng Stevens vẫn còn tương đối chưa được công chúng bên kia Đại Tây Dương biết đến. Để khắc phục điều này, sau khi ký hợp đồng với Island Records vào năm 1970, một thỏa thuận phân phối tại Mỹ đã được sắp xếp với Jerry Moss của A&M Records ở Bắc Mỹ. Stevens bắt đầu làm việc với Mona Bone Jakon, một album dựa trên nhạc folk rock.

Nhà sản xuất Paul Samwell-Smith kết hợp Stevens với tay guitar Alun Davies, người hiện đang làm việc như là một nhạc sĩ làm theo phiên. Alun là một nghệ sĩ kỳ cựu giàu kinh nghiệm với hai album mà trong đó đã bắt đầu khám phá những thể loại mới nổi của skiffle và nhạc folk rock. Davies cũng hoàn toàn phù hợp với Stevens, đặc biệt là có khả năng fingerwork trên guitar, sự hài hòa và giọng hát phụ của Davies. Ban đầu họ gặp nhau chỉ để thu Mona Bone Jakon,[31] nhưng họ đã sớm phát triển thành tình bạn. Davies, như Stevens, là một người cầu toàn,[32] là một người xuất hiện sau khi hoàn thành tất cả các kiểm tra âm thanh, chỉ để chắc chắn rằng tất cả các thiết bị và âm thanh đã được chuẩn bị cho mỗi buổi biểu diễn.[33] Ông đã phối hợp với Stevens trong tất cả các album ngoại trừ 2 album Stevens phát hành trước, và biểu diễn và thu âm với Stevens cho đến khi Steven nghỉ. Tuy vậy, tình bạn của họ vẫn tiếp tục và khi Stevens trở lại dưới cái tên Yusuf Islam 27 năm sau đó, Davies vẫn xuất hiện trở lại và biểu diễn bên cạnh ông như vẫn vậy.

Sample of "Wild World", performed by Cat Stevens. Appears on Tea for the Tillerman.

Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Đĩa đơn đầu tiên phát hành từ Mona Bone Jakon là Lady D'Arbanville, trong bài này, Stevens viết về cô bạn gái trẻ người Mỹ tên là Patti D'Arbanville. Bản thu này, có âm thanh nhạc Madrigal (một dòng nhạc thời Phục hưng và Baroque), không giống như đa số các bản nhạc được chơi trên những đài phát thanh nhạc pop lúc đó, với âm thanh của djembe (một loại trống gỗ) và bass bên cạnh tiếng guitar của Stevens và Davies, đã đứng vị trí thứ 8 ở Anh. Đó là lần đầu tiên các bản hit của ông được phát sóng thực sự tại Hoa Kỳ.[23] Ca khúc này đã bán được hơn một triệu bản, và đã được trao tặng đĩa vàng vào năm 1971.[34] Những ca khúc khác viết cho D'Arbanville bao gồm "Maybe You’re Right", và "Just Another Night" [35] Ngoài ra, bài "Pop Star", nói về trải nghiệm của ông thời là một ngôi sao tuổi teen, và" Katmandu", với tiếng sáo của Peter Gabriel, thủ lĩnh của nhóm Genesis, rất đặc trưng. Mona Bone Jakon là ví dụ đầu tiên về hình thức album solo của ca sĩ kiêm nhạc sĩ và đã trở nên phổ biến đối với các nghệ sĩ. Tạp chí Rolling Stone so sánh sự phổ biến của nó với Tumbleweed Connection của Elton John, rằng album này đã được chơi "vượt qua các giới hạn, vượt hết các hình thức phát thanh".[36]

Mona Bone Jakon là tiền thân cho album đột phá mang tầm quốc tế của Stevens, Tea for the Tillerman, album này đã lọt vào Top 10 Billboard hit. Trong thời gian 6 tháng từ lúc phát hành, đã bán được hơn 500.000 bản, đạt được đĩa vàng ở Mỹ và ở Anh. Sự kết hợp của phong cách folk rock mới của Stevens với lời bài hát dễ nghe nói về các tình huống và các vấn đề thường ngày, cùng với sự khởi đầu của những câu hỏi về cuộc sống tinh thần, điều mà sẽ vẫn còn trong âm nhạc của ông từ dạo đó. Album có bản đơn vào Top 20 là Wild World, một bài hát chia tay sau khi D'Arbanville chuyển đi. "Wild World" được ghi nhận là mang lại đủ sức hút cho Tea for Tillerman để album này được phát trên đài phát thanh FM và giám đốc của Island Records, Chris Blackwell, đã gọi đó là "album tốt nhất mà chúng tôi đã từng phát hành ".[20] Những bài đáng chú ý khác trong album bao gồm "Hard-Headed Woman", và Father and Son, một ca khúc được hát bởi cả giọng nam trung và giọng nam cao, nói về cuộc đấu tranh giữa người cha và con trai, người đang phải đối mặt với lựa chọn riêng cho cá nhân trong cuộc sống. Năm 2001, album này đã được chứng nhận bởi RIAA là bản thu Multi-Platinum, đã bán được 3 triệu bản tại Hoa Kỳ vào thời điểm đó.[37] Album này được xếp ở vị trí thứ 206 trong danh sách 500 album hay nhất mọi thời đại của Tạp chí Rolling Stone vào năm 2003.[38]

Sample of "Father and Son", performed by Cat Stevens. Appears on Tea for the Tillerman.

Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Sau khi kết thúc mối quan hệ với D'Arbanville, Stevens nhận thấy đã có những ảnh hưởng trong cách ông viết nhạc, ông nói rằng:

"Mọi thứ tôi viết trong khi tôi đang đi xa trong một khoảng thời gian chuyển tiếp và phản ánh nó. Giống như Patti. Một năm trước, chúng tôi chia tay; Tôi đã bên cô ấy trong 2 năm. Những gì tôi viết về Patti và gia đình tôi... bây giờ khi tôi hát, tôi nhận ra những điều kỳ lạ, tôi học được ý nghĩa từ những bài hát của mình thật muộn màng... ".[38]

Sau khi đã có dấu ấn trong âm nhạc, Stevens đã có một chuỗi những thành công liên tục trong những năm tiếp theo. Album Teaser and the Firecat phát hành năm 1971, đạt vị trí số 2 và đạt đĩa vàng trong vòng 3 tuần phát hành tại Hoa Kỳ. Album có nhiều bản hit, bao gồm Peace Train, Morning Has Broken (một bài tụng ca của đạo Thiên Chúa do nhà thơ Eleanor Farjeon viết), và Moon Shadow. Album này cũng đã được chứng nhận bản thu Multi-Platinum của RIAA vào năm 2001, với hơn 3 triệu bản ở Mỹ trong thời gian đó. Khi được phỏng vấn trên đài phát thanh Boston, Stevens nói về Teaser and the Firecat:

"Tôi bắt được giai điệu và sau đó tôi cứ tiếp tục hát giai điệu đó cho đến khi các từ ngữ đi ra từ giai điệu. Đó là một trạng thái thôi miên mà bạn đạt được sau một thời gian khi bạn cứ tiếp tục chơi nó và từ ngữ sẽ phát triển từ nó. Rồi bạn chớp lấy những từ đó và để cho nó cứ đi tiếp theo bất cứ cách nào nó muốn... về bài "Moonshadow"? Rất hài hước, đó là tại Tây Ban Nha, tôi đã đến đó một mình, hoàn toàn một mình, để trốn khỏi vài thứ. Và tôi đang nhảy nhót trên những tảng đá ở đó... ngay trên những tảng đá nơi những con sóng như muốn thổi bay và nước bắn tung tóe. Thực sự, nó rất tuyệt. Và Mặt Trăng rất sáng, bạn biết đấy, và tôi bắt đầu nhảy và hát và rồi tôi đã hát bài hát đó và giống như bài hát đó đã ở lại. Đó giống như là thời điểm mà bạn muốn tìm thấy khi bạn viết bài hát" [39]

.

Trong 7 tháng của năm 1971-1972, Stevens đã được cho là có quan hệ lãng mạn với ca sĩ nổi tiếng Carly Simon khi cả hai đã được nhào nặn bởi Samwell-Smith. Trong thời gian đó cả hai đã viết bài hát tặng nhau và hát về nhau. Simon đã viết và ghi ít nhất 2 bài trong Top 50, "Legend in Your Own Time" và "Anticipation" về Stevens. Ông đáp lại trong bài hát của mình, sau khi kết thúc chuyện tình lãng mạn của họ, mang tên "Sweet Scarlet".[40][41][42]

Album tiếp theo của ông, Catch Bull at Four, phát hành vào năm 1972, là album thành công nhanh nhất của ông tại Hoa Kỳ, đạt đĩa vàng trong 15 ngày, và giữ vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard trong 3 tuần. Album này tiếp tục với lời bài hát nội tâm và liên quan đến tinh thần mà ông vốn đã nổi tiếng, kết hợp với một giọng thô và ít thanh âm hơn so với những bản thu trước đó của ông, sử dụng synthesizer (một dạng nhạc cụ điện tử tạo ra rất nhiều âm thanh khác nhau) và các nhạc cụ khác. Mặc dù doanh số bán của album này cho thấy sự nổi tiếng của Stevens, nhưng album không thực sự tạo ra bản hit nào ngoại trừ ca khúc "Sitting" đứng ở vị trí thứ 16. Catch Bull at Four được chứng nhận Bạch kim vào năm 2001.

Bước đầu thăm dò nhạc phim

Tháng 7 năm 1970, Stevens thu âm lại một trong những bài hát của mình, "But I Might Die Tonight", cho phim Deep End của Jerzy Skolimowski.[43] Năm 1971, Stevens viết 9 bài soundtrack của bộ phim hài Harold and Maude, bộ phim này rất nổi tiếng vì cổ vũ cho tinh thần tự do, và mang âm nhạc của Stevens đến một đối tượng công chúng rộng lớn hơn, và vẫn còn tiếp tục tác dụng sau khi ông ngừng thu âm vào cuối những năm 1970. Trong số các bài hát này có "Where Do the Children Play?", "Trouble", và "I Think I See the Light". 2 trong số các bài hát, "Don’t Be Shy" và "If You Want to Sing Out, Sing Out", không được phát hành trên bất kỳ album nào cho đến khi được đưa vào bộ sưu tập "greatest hits" lần thứ hai, phát hành vào năm 1984 với tựa đề 'Footsteps in the Dark: Greatest Hits, Vol.2.

Sau khi đổi tôn giáo của mình vào cuối những năm 1970, Stevens đã không còn cho phép các bài hát của mình được sử dụng trong các bộ phim. Tuy nhiên, gần hai mươi năm sau, vào năm 1997, phim Rushmore đã được phép sử dụng bài hát của ông là "Here Comes My Baby" và "The Wind", điều này cho thấy ông đã sẵn sàng phát hành nhạc của mình sau những ngày là "ngôi sao nhạc pop" phương Tây.[44] Tiếp theo đó là vào năm 2000, bài Peace Train trong bộ phim Remember the Titans,[45] cũng vào năm 2000 trong phim Almost Famous có sử dụng bài "The Wind",[46] và trong năm 2006 có bài "Peace Train" làm nhạc nền cho phim We Are Marshall.[47] Trong năm 2007, một đoạn trích "If You Want to Sing Out, Sing Out" được hát bởi những nhân vật trong phim Charlie Bartlett, những nhân vật này tương tự như nhân vật Harold trong "Harold and Maude", là phim mà bài này lần đầu tiên xuất hiện.[48] Trong năm 2009, ca khúc Father and Son là bài nhạc nềncủa bộ phim The Boat That Rock (còn được biết đến dưới tên "Pirate radio" ở Mỹ). Trong năm 2010, bài Wild World được hát bởi nhân vật trong loạt phim truyền hình Skins.

Những bản ghi âm sau này

Những bản tiếp theo phát hành trong những năm ‘70 cũng đứng hạng cao trên các bảng xếp hạng và doanh số bán vẫn tăng liên tục, mặc dù không có được thành công như ông đã có trong những năm 1970-1973. Năm 1973, Stevens chuyển đến Rio de Janeiro, Brazil, như một cách để tránh thuế của nước Anh, tuy nhiên, sau này ông đã hiến tặng số tiền đó cho UNESCO.[49] Trong thời gian đó, ông đã ra album Foreigner, đây là một sự xuất phát từ chỗ âm nhạc đã đưa ông đến đỉnh cao của sự nổi tiếng. Album này khác biệt ở một số khía cạnh: hoàn toàn được viết bởi Stevens, ông đã bỏ ban nhạc của mình và sản xuất bản thu mà không có sự hỗ trợ của Samwell-Smith, người đã đóng một vai trò lớn trong việc đưa ông trở nên nổi tiếng, và thay vì guitar, ông chơi nhạc cụ phím trong suốt album. Album này dự định sẽ thể hiện yếu tố funk/soul đang thịnh hành mà Stevens đánh giá rất cao. Mặt thứ nhất của Foreigner khác rất nhiều so với dòng nhạc pop mà người hâm mộ trên các đài phát thanh đã mong đợi. Tháng 11 năm 1973, ông biểu diễn mặt thứ hai của album tại Nhà hát Aquarius ở Hollywood, với một buổi thu hình liên tục phát qua bốn kênh vừa truyền hình vừa truyền thanh trên mạng lưới của ABC network có tên "Buổi biểu diễn Trăng và Sao", phần biển diễn này có cả ban nhạc của ông, nhưng tất cả mọi người đã bị lu mờ bởi một dàn nhạc. Album có vài bài bao gồm "The Hurt", nhưng đã không đạt được đỉnh cao mà ông đã từng có.

Sample of "Later", performed by Cat Stevens. Appears on Foreigner.

Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Tiếp nối Foreigner là đến Buddha and the Chocolate Box, một sự trở lại với nhạc cụ và phong cách giống trong Teaser and the Firecat và "Tea for the Tillerman". Với sự trở lại của Alun Davies và ca khúc nổi tiếng nhất "Oh Very Young", album Buddha and the Chocolate Box đạt đĩa bạch kim vào năm 2001. Album tiếp theo của Stevens là album hòa nhạc "Numbers" lại là một sự khởi đầu ít thành công của ông.

A sample of "Was Dog a Doughnut?" from Izitso. It was one of the first examples of electro, or techno-pop.

Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Tháng 4 năm 1977, album Izitso của ông cập nhật phong cách pop rock và folk rock với việc sử dụng rộng rãi các synthesiser,,[50] mang lại cho album này một phong cách synthpop hơn.[51] Đặc biệt "Was Dog a Doughnut" là một bài kết hợp techno-pop thời kỳ đầu với tiền thân của thể loại âm nhạc điện năm 1980,[52] cũng sử dụng khá sớm music sequencer.[53] Izitso có bài hit lọt bảng xếp hạng cuối cùng của ông, "(Remember the Days of) Old Schoolyard", một bài hát synthpop thời kỳ đầu [51] mà sử dụng bộ tổng hợp đa âm; đây là bản song ca với đồng nghiệp Anh, ca sĩ Elkie Brooks.[53] Linda Lewis xuất hiện trong video clip của bài hát, Cat Stevens hát với cô ấy, giống như họ là bạn học cũ, hát với nhau ở vòng đu quay trong sân trường. Đây là một trong số ít video clip âm nhạc mà Stevens từng thực hiện, điều này rất khác so với các video đơn giản chỉ ghi lại các buổi biểu diễn.

Album gốc cuối cùng của ông dưới tên Cat Stevens là Back to Earth, phát hành vào cuối năm 1978, cũng là album đầu tiên được sản xuất bởi Samwell-Smith kể từ album đơn đỉnh cao của ông hồi đầu thập niên 1970.

Một số album tổng hợp đã được phát hành trước và sau khi ông ngừng thu âm. Sau khi Stevens rời Decca Records, họ đã phát hành 2 album đầu tiên của ông chung với nhau thành một bộ, với hy vọng sẽ tạo lại đợt phát hành thành công như lúc ban đầu của ông, sau này, nhà sản xuất mới cũng làm như vậy, và chính ông cũng tự phát hành dạng album tổng hợp này. Album tổng hợp thành công nhất là Greatest Hits năm 1975, đã bán được hơn 4 triệu bản tại Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 2003, ông nhận được giải thưởng Platinum châu Âu đầu tiên [54] từ IFPI cho album "Remember Cat Stevens, The Ultimate Collection", nhờ đã bán hơn một triệu bản ở châu Âu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cat Stevens http://www.marrinergroup.com.au/shows-tickets-deta... http://undercover.com.au/News-Story.aspx?id=10784_... http://www.cbc.ca/thehour/video.php?id=1264 http://web.youngmuslims.ca/online_library/tafsir/s... http://www.allmusic.com/album/catch-bull-at-four-r... http://www.allmusic.com/album/izitso-r19012 http://www.altnet.com/album/1491491/The_Day_The_Wo... http://www.amazon.com/Lets-Spend-Night-Together-Su... http://www.ascap.com/eventsawards/awards/prs/2005/... http://www.ascap.com/eventsawards/awards/prs/2006/...